Category: Việt Nam

  • Cơm âm phủ trà đen


    Một ngày đẹp trời tôi bất chợt nhận ra: có lẽ mình nên học cách kết hợp đồ “ẩm” và đồ “thực” với nhau, cho đúng điệu người biết ẩm thực. Khổ nỗi cả chục năm trời chỉ thường uống có hai thứ: nước và sữa đậu nành. Nếu học được tất cả các loại nước thì tốt quá rồi, nhưng tìm đâu ra nước khe nước suối trong thành phố, sữa đậu nành thì không thể pair với mọi món ăn như rượu vang được. Cà phê, rượu bia và nước ép trái cây đã đành nằm ngoài vòng kiểm soát. Vậy là chỉ còn có trà.

    Thừa thắng xông lên, đã tốn công nấu nước trà thì tìm cách nấu ăn bằng trà luôn. Không biết dư vị ochazuke (cơm trà xanh của Nhật) có ảnh hưởng ít hay nhiều, chỉ biết trong khi vắt óc 2 phút tính toán xem món gì dễ làm với trà nhất, thì tôi nghĩ ngay đến cơm. Nhưng cơm trà đằng này khác cơm trà Nhật: ochazuke là cơm chan trà, cơm trà đằng này là cơm nấu với trà.

    Nấu cơm với trà có thể dễ và cũng có thể rắc rối. Cách rắc rối là dùng trà nguyên lá: chất lượng cao, mùi vị đậm và giữ được lâu, nhưng mất công ở chỗ hoặc phải đun trà lấy nước trước rồi dùng nước trà nấu cơm, hoặc phải làm bà Tấm, nhặt lá trà ra khỏi cơm sau khi cơm chín. Cách đơn giản là dùng trà túi lọc. Tôi vốn tuổi con lười, nên ai cũng biết tôi chọn cách nào rồi đó.


    Không như những lần hứng chí nấu nướng khác, tôi nấu cơm trà cũng được vài bận, gia giảm cho vừa ý mới thôi. Có chí thì nên, tôi học được vài điều:
    1. Trà xanh làm cơm thơm mùi trà, trà đen (tức là hồng trà nếu gọi theo cách của người Hoa) làm cơm có vị trà, nhưng không có trà nào làm cơm vừa thơm vừa có vị cả. Trà trắng thì không thử cũng biết là vô phương, vì trà trắng thanh quá.
    2. Tỉ lệ vừa đủ là 1 túi trà lọc cho 1 cup nước (nhưng bao nhiêu cup nước cho 1 cup gạo thì tuỳ loại gạo)
    3. Cơm trà hút nước hơn cơm thường. Khi nấu cơm thường, mở nắp ra nước chảy ròng ròng từ mặt dưới cái nắp, đúng không? Khi nấu cơm trà, cái nắp khô queo.

    Má Bé Nhỏ khuyên rất có lý: gộp cả trà đen trà xanh lại cho vừa có vị vừa có hương. 🙂 Tôi dùng 3 cup gạo, 4 cup nước, 3 túi trà đen và 2 túi trà xanh. Cơm ra màu nâu đỏ như cơm trộn nước tương, mùi thơm cây lá thanh tao, ban đầu cho một vị đắng rất nhẹ, nhưng xuống đến cuống lưỡi thì ngọt dịu. Đó là vị ngọt tự nhiên của gạo được nâng cấp bởi vị ngọt của trà đen.

    Tìm món ăn kèm với cơm trà cũng khó, phải làm sao cho cơm vừa miệng mà không đánh chìm mất vị trà. Những món càng ít gia vị càng tốt, nên tôi vơ vét tủ lạnh được dăm ba thứ, đem thái sợi theo kiểu cơm âm phủ lại vừa hay:


    Một chút trứng chiên, lê Đại Hàn, cải bách thảo làm theo kiểu kimchi trắng, một chút thịt bò luộc. Giá như có thêm chả lụa thì hoàn hảo. Rưới một ít nước tương tỏi đường trên mặt, và đĩa cơm xướng khúc khải hoàn ca. 😀

  • Quà vặt từ tiệm bánh mì #15: Bánh quy


    Trong số hai trăm mấy mươi bài đã đăng, loạt bài Quà vặt từ tiệm bánh mì khiến tôi tốn nhiều thời gian nhất nhưng cũng là những bài tôi hăm hở viết nhất. Quà vặt là những thứ quà ít tiền, và bạn sẽ nói dĩ nhiên rồi, một cô sinh viên cao học làm sao có thể tiêu xài xa xỉ cho một bữa tối ở The Slanted Door, The French Laundry, hay Chez Panisse cây nhà lá vườn được. Ừ thì tiền lương của tôi có ảnh hưởng ít nhiều đến những buổi đi chợ, nhưng thành thật mà nói, tôi không còn hứng thú lắm với những nhà hàng hạng sang. Một bữa ăn ở một nhà hàng hạng sang có thể gây cảm giác chói lòa như một buổi bắn pháo hoa, nhưng cũng giống như pháo hoa, cảm giác đó tan biến rất nhanh chóng. Việc trộn lẫn những nguyên liệu hảo hạng hay lạ lùng với nhau cũng chính là trộn lẫn văn hóa ẩm thực của nhiều nước với nhau, để rồi giống như một ly sinh tố hỗn hợp không có vị gì rõ ràng, nét văn hóa của món ăn cũng đã nhàu nát. Trong khi đó, nếu tôi viết về một thứ quà quê đang dần mai một, tôi có thể mất mấy ngày tìm kiếm bằng Google cũng không thể chắc chắn rằng tôi đã biết hết các sự tích về nó. Những thứ quà ấy không đơn thuần là một mớ nguyên liệu trộn lẫn, chúng là một phần của một nền văn hóa. Ví dụ như tên gọi của một thứ bánh là một phần của một câu thành ngữ chẳng hạn.


    Suốt 25 năm trời tôi nói câu ““bánh ít trao đi, bánh quy trao lại” cả triệu lần, nhưng tôi chẳng biết mặt mũi cái bánh quy nó như thế nào cả. Nhiều người gọi cái bánh ngọt khô (tiếng Anh là cookie) là bánh bích-quy (hài âm từ “biscuit“) và nói cho gọn là bánh quy, nhưng cái bánh quy Tây Âu này và cái bánh ít của người Nam quá khác nhau để có thể được xếp theo kiểu đồng vai phải lứa. Hơn nữa, tôi đoán thành ngữ kia phải có mặt ở Việt Nam trước các món ăn Tây. Cái sự dốt của tôi cứ âm ỉ ngày này qua tháng nọ, đến hôm kia trong lúc lục lọi giữa một rừng bánh trái bày bán ở Alpha Bakery, tôi tưởng mình hoa mắt khi nhìn thấy một gói ba chiếc bánh tròn xanh biếc dán nhãn “bánh quy“.

    Chiếc nào chiếc nấy múp míp, đáy bằng phẳng, nằm ngay ngắn trên một miếng lá chuối cũng tròn, vẻ như cái mai rùa nằm trên cỏ ướt. Nếu nhìn kĩ ta có thể thấy cả những đường rãnh nhỏ gần mép mai. Ra vậy, “quy” trong “bánh quy” tức là “rùa”, và tên bánh gắn liền với hình dáng của nó.


    Nói về thành phần, bánh quy thật sự là một đứa em nhỏ hơn, tròn hơn, dẹp hơn của bánh ít: cũng bột nếp, bột năng, muối, đường, dầu ăn, và một cục nhân ngọt. Ngày xưa người ta làm bánh quy có phân biệt chấm đỏ hoặc chấm vàng trên “mai rùa” để biết nhân dừa hay nhân đậu, nhưng ngày nay xem ra chỉ có rùa dừa còn sống sót. Mỗi chiếc bánh gọn gàng và đầy đặn vừa khít một nắm tay em bé, người lớn cắn hai ba miếng, giật mình nhìn lại, ơ cái bánh dai dai ngòn ngọt sao mà chóng hết?


    Một đồng rưỡi ba chiếc. Tiện thể nhớ tìm mua luôn vài cái bánh gai, cùng họ bánh ít cả mà.

    Address: Alpha Bakery & Deli (trong Hong Kong City Mall)
    11209 Bellaire Blvd # C-02
    Houston, TX 77072-2548
    (281) 988-5222

    Bài trước trong loạt Quà vặt từ tiệm bánh mì: bánh da lợn

    Bài viết này sẽ góp mặt trong chuyên mục Delicious Vietnam #12 của tháng Tư, thực hiện bởi Anh, tác giả của trang blog A Food’s Lover Journey.

  • Từ bếp của Mẹ #3 – Đậu phụ nhồi thịt sốt cà

    Bài Mẹ viết

    Đậu phụ là một món làm từ đậu nành rất quen thuộc với người châu Á, đặc biệt là người Việt, người Tàu, người Nhật, và người Đại Hàn. Tôi xem phim Đại Hàn thấy người ta ăn đậu phụ trong tất cả các bữa ăn hàng ngày, và có lẽ họ còn tin rằng đậu phụ tượng trưng cho sự thanh khiết, giúp tránh việc rắc rối với pháp luật nên họ thường mang đậu phụ đến cho người thân ăn ngay sau khi người ấy vừa ra khỏi nhà giam. Tôi thấy đó thật là một việc làm dễ thương và rất có ý nghĩa. Đó là chuyện của người Đại Hàn, còn người Việt chúng ta ở miền Bắc, tuy gọi là đậu phụ nhưng nó lại gần như là món ăn chính, chứ chẳng phụ chút nào. Ví như bác Lê trai trong Xóm Cầu Mới của Nhất Linh ao ước chỉ cần mỗi ngày có được một bìa đậu phụ chấm mắm tôm để nhắm rượu trong bữa cơm chiều là cũng đủ mãn nguyện lắm rồi. Tôi không biết cái bìa đậu phụ ấy đã được chiên vàng hay là còn trắng nõn, và ăn với mắm tôm như vậy có ngon hay không, chứ tôi biết món tàu hủ nước đường trong Nam thì ngon tuyệt cú mèo. Nãy giờ dông dài chuyện đậu phụ làm tôi vừa nghĩ đến một món ngon khác, cũng lấy đậu phụ làm chính, ấy là đậu phụ dồn thịt sốt cà.


    Nguyên liệu
    – 1 vỉ đậu phụ chiên vàng đã cắt thành khối vuông (khoảng 3 cm x 3 cm)
    – 1/4 pound thịt heo xay
    – 3 củ hành ta, hoặc 1/2 củ hành tây
    – 1/2 muỗng cà phê tỏi băm
    – 1 muỗng cà phê đường
    – 1/4 muỗng cà phê muối
    – Tiêu và dầu oliu

    Nguyên liệu cho sốt cà:
    – 1/2 hộp cà thái hạt lựu (diced tomato, hiệu Hunt’s hoặc Del Monte có nêm sẵn tỏi, basil và oregano)
    – 3 củ tỏi tươi lột vỏ
    – 3 muỗng canh đường
    – 1 muỗng cà phê muối

    Ướp thịt xay với muối, tiêu, đường, hành tỏi băm. Xẻ một rãnh nhỏ trên từng khối đậu phụ để nhồi thịt vào. Đun dầu ăn trong chảo ở mức lửa trung bình, dầu phải đủ để ngập mặt miếng đậu phụ. Chờ dầu sôi cho đậu phụ vào, chiên vàng đều 6 mặt thì thịt bên trong chín kỹ. Lấy ra xếp vào đĩa sâu lòng.

    Trong một chảo khác, cho 1 muỗng canh dầu ăn, thêm tỏi tươi đập dập vào phi đến khi vàng thơm. Cho cà thái hạt lựu vào, nêm muối đường cho vừa ăn (với người thích ăn nhạt thì thêm nước), chà sốt cà sôi khoảng 3 phút rồi nhắc xuống. Rưới đều sốt vào đĩa đậu phụ.


    Đậu phụ làm theo cách này dùng với cơm nóng trong một ngày mưa, cái ngọt ngào giòn giã ấy khi chia sẻ với cả nhà cũng nên một niềm vui nho nhỏ khó quên.

  • Từ bếp của Mẹ #1 – Mứt cam

    Bài Mẹ viết


    Con gái tôi và bạn của nó vốn rất thích nước cam vắt tôi làm. Vì vậy, mỗi khi biết nó sắp về chơi những dịp nghỉ hè hay nghỉ đông, tôi thường chạy lên thành phố College Station, cách nhà khoảng hai giờ lái xe, tìm mua những trái cam navel từ chợ Farm Patch để làm cam vắt cho nó. Loại cam này trái to tròn, màu tươi tắn, vị ngọt mà thanh, vỏ sần sùi như vỏ cam sành, và khi bóc vỏ ra thì dưới trôn trái có thêm một quả cam bé xíu, ăn thấy giòn mà ngọt lạ lùng. Tôi cũng không hiểu sao cam navel từ các chợ khác không ngon bằng cam navel của cái chợ quê nhỏ nhắn Farmer Patch Produce Market này. Và cũng vì rất thích những trái cam đó nên tôi thấy hơi tiếc khi bỏ đi phần xác cam đã vắt hết nước. Rồi thì một lần rãnh rỗi, tôi giữ cả vỏ cả xác cam ấy lại để thử làm mứt xem sao.


    Nguyên liệu rất đơn giản, chỉ cần có:
    – 2 trái cam
    – 10 muỗng canh đường cát trắng
    – 1 cup nước lọc


    Cách làm cũng đơn giản:
    – Rửa sạch trái cam, vắt nước để riêng (không dùng nước cam trong mứt). Xắt sợi vỏ cam (còn nguyên xác múi cam và một ít tép cam).
    – Pha đường với nước, khuấy đều, bắc lên bếp đun nhỏ lửa khoảng 15 phút. Dùng đũa chấm thử vào nước đường đang sôi, lấy ra và tách nhẹ hai đầu đũa, nếu giữa hai đầu đũa có một sợi tơ nhỏ thì đường đã tới.
    – Cho vỏ cam xắt sợi vào, tiếp tục để lửa riu riu, thỉnh thoảng đảo nhẹ cho đường thấm đều vào vỏ cam.
    – Chừng 30 phút, thấy mứt đã dẻo dai thì tắt lửa, cho mứt vào lọ thủy tinh.
    – Chờ mứt nguội, đậy nắp lại và bỏ vào tủ lạnh, sẽ giữ được rất lâu.


    Mứt cam này ăn với bánh mì nướng vừa ngọt đậm lại vừa giòn, lại có vị hơi the của vỏ cam. Người ta tin rằng vỏ cam cỏ thể trị được chứng đau rát cổ khi cảm lạnh, còn tôi thì tin rằng làm mứt cũng là một cách rất hay để tập tính kiên nhẫn. 🙂

  • Quà vặt từ tiệm bánh mì #13 – Bánh xu xê


    Khi người ta vào giữa độ tuổi hăm, tự nhiên người ta bắt đầu nhận được đủ thứ thông báo cưới hỏi trong vòng bằng hữu. Đại học vừa xong thì phân nửa đám con gái tôi biết lục tục đăng danh sách quà cưới (wedding registry, phong tục phổ biến của đám cưới Mỹ tân thời) lên Facebook, và tôi nghĩ ừ thì người Mỹ họ vẫn mau chóng thế. Đến Giáng Sinh vừa rồi, một người bạn thân thời đại học bỏ cuộc họp lớp vì ngày trọng đại của anh ta đã đến bên Ấn Độ, và một người bạn thân khác thời trung học báo tin sét đánh là đã đính hôn, trong khi tôi cứ tưởng cậu còn lang thang trên các dãy phố của Thành Đô. Mấy tuần sau đó, hai đứa bạn hồi lớp 11 ở Việt Nam tuyên bố nội năm nay sẽ thành gia thất (không phải với nhau). Tôi hoác nhiên nhận ra một điều…

    …Tôi chưa viết về món ăn tiệc cưới nào cả, mặc dù tôi ăn cưới đã mòn răng :D. Thôi thì sao không mừng lễ Valentine năm nay bằng một thức quà Việt Nam mà tên gọi gắn liền với hai nhân vật chính của ngày cưới: bánh xu xê?

    Ngày xưa khi còn là quà trong lễ hỏi, chiếc bánh xu xê xanh múp míp được gói trong những hộp lá chuối vuông vức. Ngày nay người ta bọc chúng trong giấy kính trong suốt, và chiếc bánh căng tròn như một cái gối con. Có lễ người lớn đã từng gọi chúng là bánh phu thê, nhưng bọn trẻ nói ngọng hoặc nói đùa thành bánh xu xê, và chết tên cái bánh từ đó. Nói về kĩ thuật, có lẽ chỉ với tay nghề của các bà ngoại người ta mới có thể biến một hỗn hợp bột nếp, bột mì tinh và nước thành một lớp vỏ bọc dẻo dai mà không dính tay. Vài người có thể không thích cái giòn giòn sừng sực của vỏ bánh xu xê, hoặc chê nó lạt lẽo vô vị, nhưng tài nghệ của người làm bánh thì người ta không thể chối bỏ được. Phần tôi, tôi thích cái gì dai, và thật lòng tôi thích vỏ bánh hơn nhân bánh.

    Theo cách cổ truyền, khoai môn thái sợi được trộn với bột làm vỏ bánh để tạo vân, nhưng bây giờ người ta thường trộn dừa nạo hoặc rắc mè trên mặt cho thay đổi không khí. Những nhà làm bánh công phu xứ Bắc còn rỏ thêm vài giọt nước hoa bưởi vào nhân đậu xanh cho dậy mùi thơm, nhưng tôi chẳng mong gì bánh xu xê ở các tiệm bánh mì Huê Kỳ có mùi hoa bưởi, nhất là khi một vỉ bốn chiếc bán vỏn vẹn 2 đồng.


    Bánh xu xê là thức quà ngọt người thích người không. Mẹ tôi thích. Blogger Nhà Ẩm Thực (The Gastronomer) thì lại thích dùng nó làm đạn để ném bạn bè cho vui. Tôi thấy nó là một biểu tượng hoàn hảo của hôn nhân, và không phải chỉ vì cái tính dẻo quẹo của nếp là mong ước kết chặt hai người hay đại loại vậy. Bề ngoài bánh xu xê đẹp mắt lắm – và hầu như ai mà chẳng thích chuyện cưới xin, nhưng khi ghé răng cắn vào mới thấy nó dai, nó nhạt, nó không như người ta trông đợi, để rồi khi nếm đến cái nhân thì ta khám phá một chút ngọt ngào mềm dịu sau cùng. 🙂

    Địa chỉ: Alpha Bakery & Deli (trong Hong Kong City Mall)
    11209 Bellaire Blvd # C-02
    Houston, TX 77072-2548
    (281) 988-5222

  • Gánh quà ngày Tết ở Kim Sơn

    *Bài viết của Mẹ nhân Mồng Bốn Tết Tân Mão*


    Ngày còn ở Việt Nam, tôi ít khi ăn quà bánh bày nơi hè phố hoặc gánh đi bán rong, vì mẹ tôi quy định nghiêm ngặt rằng quà rong không được sạch sẽ lắm. Nhưng sáng hôm nay, tôi đã đùng đùng hối ông xã chạy lên nhà hàng Kim Sơn để ăn trưa, chỉ vì tối qua xem TV thấy người ta nói Kim Sơn có mở một đại hội ẩm thực đón Tết Tân Mão trong 9 ngày, với những thức ăn Việt Nam được đặc biệt bày bán trong quang gánh, thúng mủng như những thức quà rong ngày xưa, và vừa may, hôm nay là ngày chót của đại hội.


    Như thường lệ, Kim Sơn bày biện theo kiểu buffet, nhưng vì là ngày Tết nên nhà hàng được trang hoàng với nhiều hoa quả cùng những lời chúc mừng treo khắp nơi, và nhiều món ăn hơn mọi khi. Tôi thấy có thịt kho, dưa giá, bánh xèo, bánh cống, bánh bèo, bánh đúc. Cũng có vài loại xôi, bánh tét, và cả mứt Tết.


    Tôi thật sự cảm động khi gặp lại hình ảnh những cái thúng, với đôi quang gánh bằng tre, và những tấm lá chuối xanh bên cạnh thức ăn mừng năm mới.


    Món đầu tiên tôi chọn là bò 7 món. Tiếng là bảy món nhưng thật ra nhà hàng chỉ dọn ra bốn món: bò nướng vỉ, bò chả đùm, bò nướng lá lốt và bò nướng mỡ chài. Mỗi thứ chỉ có một ít nhưng thật ngon, đặc biệt là bò mỡ chài. Miếng thịt mềm mại và thơm ngát mùi gia vị, cuốn tròn như một cuốn chả nhỏ, ngắn hơn ngón tay út một chút, được nướng khéo trên ngọn lửa không quá già rồi bưng ra ngay cho khách. Tôi ngạc nhiên cảm nhận thấy mỗi miếng thịt thật sự gói ghém cả một kỳ công của người đầu bếp nơi đây.


    Trong khi đó, ông xã tôi chọn chả ốc bọc lá chuối nướng, món được giới thiệu là món đặc biệt của nhà hàng hôm nay. Tôi không thích ốc nhưng vì tò mò nên cũng nếm thử, và thấy rằng tuy chả hơi cay nhưng quả là ngon thật. Chẳng nghe một tí gì cái mùi ốc vẫn thường làm tôi thấy ghê ghê ngày còn nhỏ, miếng chả mịn nhuyễn như chả lụa được bọc trong lá chuối rồi mới nướng nên không có hương lửa cháy xém mà ngát mùi dịu ngọt của một cơn gió nhẹ đêm hè. Dù thích ăn cá nhưng công bằng mà nói, món chả ốc Việt Nam này ngon hơn món chả cá Indonesia con gái mời tôi vài tháng trước.


    Một món khác tôi cũng rất thích hôm nay là bánh canh cua Nam Phổ. Trước giờ tôi chỉ biết về vùng đất xứ Quảng này và món bánh canh nổi tiếng này qua sách vở, nên tôi mừng húm khi thấy nó trong thực đơn. Bát bánh canh nhìn dễ thương với màu gạch đỏ cam, những dúm thịt cua rải rác đó đây trên mặt những sợi bánh dài óng ả. Khác với bánh canh giò heo của người miền Nam với nước dùng rất trong và tôm thịt đầy ắp, bánh canh cua Nam Phổ không có thịt heo, không có tôm, nước dùng đặc sệt nhưng chỉ ngọt nhẹ nhàng. Gắp bánh đầu tiên chưa cho tôi cảm nhận điều gì, nhưng gắp thứ hai, rồi thứ ba, rồi vài ngụm nước dùng sóng sánh lưng chừng bỗng khiến tôi nghe được cả một trời hương đồng gió nội. Một sự bình yên giản dị được gói gọn tinh vi trong một bát nhỏ quà quê.


    Chỉ có giá tiền thì không quê chút nào. Tất cả $35.75 cho hai phần buffet đặc biệt hôm nay. Vừa lúc quá giữa trưa khi chúng tôi chuẩn bị ra về thì ngoài sân người ta í ới chuẩn bị múa lân và đốt pháo. Hình ảnh mười sáu con lân sặc sỡ và những dây pháo dài hàng trăm thước với tiếng nổ rầm rĩ đã theo tôi về đến tận nhà trong ý nghĩ những người Á Châu chúng ta, khi ra đi, quả thật đã cố gắng đem cùng cả ngày Tết và cả quê hương.


    Địa chỉ: Nhà Hàng Kim Sơn
    10603 Bellaire Blvd
    Houston, TX 77072
    (281) 598-1777

  • Chuyện bún xêu


    “Đằng ấy dịp này có tạ ơn không?”, ngài Miller hỏi tôi. Tôi thấy tôi cũng nên lắm. Đây sẽ là Lễ Tạ Ơn độc lập đầu tiên của tôi. Sẽ không có gà tây, không phải vì thịt hắn hơi dai mà vì chuyện mần thịt hắn ngay cái ngày mọi người sum họp yêu thương nhau, thấy cứ ang ác. Sẽ không có món đậu ve ngâm sữa đút lò, hay khoai lang nghiền phủ kẹo gối nướng giòn giòn ngọt ngọt, không phải vì tôi lười mà vì tôi không có lò nướng. Cũng sẽ không có sốt quả dâu hạc hay món ruột bánh mì nhồi gà tây, chẳng vì lý do gì cả.  Tôi sẽ ăn lễ Tạ Ơn năm nay với một món vừa đơn giản vừa không phải là mì gói: món bún xêu.

    Hơn 2000 năm trước, một vì vua ở một nước nọ ra lệnh cho nhà bếp hoàng cung chuẩn bị một đại yến để tiếp đãi phò mã tương lai từ ngoại quốc. Dĩ nhiên bữa tiệc phải bao gồm những món đặc sản trong nước, trong số đó có món bánh bột lọc đậu xanh. Để tránh bột lên men do để lâu, bột phải được xay trong ngày tiệc, và việc chuẩn bị bột được giao cho một cậu phụ bếp, người tôi đoán là cũng thích dậy sớm nhiều như tôi.

    Mắt nhắm mắt mở thế nào, cậu phụ bếp đổ bột gạo và nước vào cái rổ thay vì cái tô. Thời may, cái rổ nằm trên một nồi nước sôi, nên khi cậu nhận ra sự thể thì bột đã thành từng sợi dẻo dai (vẫn hơn tè le đâu đó trên sàn). Quan ngự thiện bắt gặp, nhưng phần thương tình, phần không dám lãng phí, ông sai cậu ra vườn ngắt rau dại vào xào sợi bột với tép mỡ làm món điểm tâm cho nhà bếp. Mùa ấy, ngoài vườn chỉ có rau cần mọc hăng hái nhất.

    Một vị quan nội thần ghé qua bếp thăm chừng việc chuẩn bị, nghe mùi cần quyện mùi tép mỡ thơm ngậy, tò mò nếm thử và thấy ngon. Khi được ông hỏi tên món ăn, quan ngự thiện lắp bắp vì sợ, nói chệch từ món “xào” thành món “xêu”. Quan nội thần nghe sao biết vậy, hớn hở đi bẩm lại với vua rằng nhà bếp vừa sáng chế ra một món mới gọi là món xêu. Vua đích thân xuống bếp nếm thử, và lúc này thì sự việc thật sự vượt khỏi tầm kiềm soát của cậu phụ bếp: vua ra lệnh cho nhà bếp thêm món xêu vào thực đơn đại yến hôm ấy.

    Hơn 2000 năm sau, món bún xêu giản dị vẫn được xem là món đặc sản truyền thống của vùng Cổ Loa, phía Bắc Hà Nội ngày nay. Người Cổ Loa cũng tin rằng sợi bún gạo chưa chắc đã ra đời trên đất Bắc nếu lần đó cậu nhỏ phụ bếp hoàng cung không buồn ngủ, quan ngự thiện không nhân từ và không biết chế biến, quan nội thần không tò mò, và An Dương Vương không phải người thích món ăn mới. Từng ấy điều trùng hợp, và cơ man nào những món bún Việt Nam bắt đầu từ món bún xào cần, chẳng phải cũng là một điều đáng tạ ơn lắm sao?

  • Đại khái là bún bung


    Mùi rau ngổ trong vắt như gió lạnh buổi sáng, nửa như chanh non nửa như bạc hà. Nước lèo cũng trong, vị ngọt thanh tao như nước quả vừa chín tới, làm từng sợi bún mọng lên như sợi tóc mới gội còn óng hương thơm. Trong tô có đỏ, có trắng, có xanh tươi của lá non, có xanh vàng màu lá úa, có cả cái nâu nhạt quê mùa của xương bò nấu canh. Ấy là tô bún bung đầu tiên cô nấu trong đời.

    Bún bung là món người Bắc. Bung là tiếng Bắc chỉ cách nấu xào trước cho rám mặt rồi mới ninh nhừ. Cô biết về bún bung qua mạng viễn thông và nếm thử nó bằng trí tưởng tượng. Mẹ cô cũng có đọc về nó, nhưng Sài Gòn chưa thấy ai bán bún bung, và bây giờ không biết Hà Nội có còn ai bán bún bung không. May ra có mấy bà cụ răng đen áo vải quang gánh từ ngoại thành vào thì bán. Dù sao thì cái món bún bung có cái tên nghe vui tai, làm cô liên tưởng đến tiếng bỏng ngô nổ lép bép hay cái hoa râm bụt nở mãn khai, cứ nói ra miệng lại thấy buồn cười.


    So với những thức bún nước khác, bún bung thuộc vào loại đơn giản, ít tốn thời gian, ít nguyên liệu, không phải chuẩn bị cầu kì như bún thang bún riêu nhưng hương vị thì không kém cạnh gì. Bún bung gần giống như canh chua của miền Nam, chỉ khác cái canh chua nấu với cá và ăn với cơm, còn bún bung nấu với chân giò và ăn với bún tươi. Cô chắc nếu người Bắc nấu mà dùng quả dọc hay quả sấu thì vị chua cũng khác với vị trái thơm miền Nam. Bún bung có thể cũng hơi giống canh bún cá cô Mùi nấu trong Xóm Cầu Mới của Nhất Linh, vì cả hai đều dùng rau ngổ cho thơm, nhưng canh bún cá không thấy nhắc có vị chua.

    Nói chuyện rau ngổ. Chữ “ngổ” nghĩa gì thì cô chịu. Nhưng cô thấy mấy ông thực vật học đặt tên rau ngổ là Limnophila aromatica thì đúng lắm. Rau ngổ thơm nồng, thơm xé, khi vừa mở bao rau ra hay khi vừa chan nước lèo nóng lên mặt thì hương rau ngổ quất vào mũi làm cả người tỉnh táo hẳn. Rau ngổ ăn sống hơi đắng nhưng lại trơn tru giòn giã y như rau muống. Bên Việt Nam người ta bán mớ rẻ như biếu không, bên Mỹ để giá $8.99 một cân. Thời may cái bó cô mua có một phần tư cân nhưng đủ ăn những sáu bữa.

    Đắt thì đắt, ít nhất rau ngổ cũng còn tìm được, chứ dọc mùng thì thua. Cơ khổ, món rau chính trong bún bung lại là dọc mùng. Biết cái vị the the xốp xốp ấy không gì thay được, nhưng cô đành dùng cần tây chẻ nhỏ thay vào, ăn cũng tạm giống. Được cái cần tây dễ rửa, trong khi dọc mùng chừng lại làm ngứa tay.

    Ngoài cái hoán đổi ấy ra, cô còn thay chân giò bằng xương bò (mỡ nhiều như bôi sáp), nước mắm bằng nước tương, và bỏ hẳn vụ bột nghệ. Kệ, cô bung xương bò, tất bún này là bún bung. 🙂


    — Tặng Đại mừng sinh nhật —

  • Le Regal – Món cũ vị mới


    Nói tới ẩm thực Việt Nam, người Mỹ thường mường tượng ra những tô phở được bưng dọn gấp gáp giữa những ghế nhựa và bàn formica. Cũng là điều dễ hiểu. Người nhập cư thường quần tụ trong cộng đồng với nhau, nên nhiều món quốc hồn quốc túy chỉ có tại hàng quán trong khu vực cộng đồng. Một số ít người nhập cư sống lâu năm trong vùng đông có người bản xứ hoặc rành chuyện giao dịch làm ăn theo cách của người bản xứ, khi mở nhà hàng sẽ tìm cách thu hút những khách ăn trẻ tuổi thích thử món lạ. Nhưng người trẻ thường túi tiền cũng khiêm tốn nên chỉ có phở và những món mì bún dễ làm là có lợi cho cả đôi bên.

    Cái lý là vậy. Nhưng dò la một hồi thì thấy món pasta alla carbonara (mì trộn tiêu) của Ý không hề công phu hơn bún thịt nướng của ta, vậy chẳng nhẽ một cái tên Tây oanh liệt, một bảng quảng cáo giòn giã, hay chỉ là một sự quen thuộc kiểu sống lâu nên lão làng giúp cho món này nằm trong thực đơn sang trọng mà món kia thì không?

    Nói ra sợ người ta cười mình chảnh, nhưng lâu lâu con nhỏ lại thấy thèm một bữa tươm tất trong một nhà hàng xứng đáng với hai chữ “nhà hàng”. Nhìn quanh thấy vá sốt phô mai này với đống bột phô mai kia mà thấy ngán. Trong khi ẩm thực Viễn Đông sao lại thấy thanh tao.


    Có thể giá hơi bén một chút, nhưng này bàn phủ khăn trắng ư, đèn vàng ấm áp ư, thực đơn toàn tiếng Anh ư, lại không phải nghe tiếng hỉ hả trong bếp và giữa những người khách ăn hết sức “vô tư”. Ở đây chỉ có một người phụ nữ trung niên thoăn thoắt từ bếp đến bàn ăn, từ bàn ăn đến quầy thu ngân, tay hóa đơn tay tô đĩa nhanh nhẹn như con chim ruồi. Le Regal không quá nhỏ để thích hợp cho một người làm, nhưng cũng không có lý do gì để khách ăn phải than phiền về điều đó. Chúng tôi gọi món, dòm ngó bâng quơ dăm ba phút, nói dăm ba chuyện vặt trong ngày, vừa kịp Cô Chim Ruồi đem món ăn ra.


    Cơm chiên là một món dễ làm, chỉ cần chút thịt, chút trứng, chút đậu Hòa Lan, chút nước tương. Người nấu có thể tùy ý thêm bớt, không có một danh sách nguyên liệu nào cố định, cũng không có một chuẩn mực nào để đem ra so sánh ngoài việc vừa miệng hay không. Nên cơm chiên hầu như lúc nào cũng ngon. Nhưng nếu chẻ sợi tóc làm tám mà tính thì cơm chiên Le Regal nhỉnh hơn cơm chiên những nơi khác tôi từng ăn, chỉ nhờ mấy miếng thơm.

    Một dĩa cơm chỉ có vài ba miếng thơm cắt dày hình rẽ quạt thôi, nhưng vị chua chua ngọt ngọt không quá gắt cũng không quá nhạt của thơm len lỏi trong từng hạt gạo, tinh tế hơn nhiều một cái vắt chanh. Nhờ có thơm, đĩa cơm mỡ màng nào gà nào tôm nào trứng nào sò điệp nào thịt heo có phần đỡ tội lỗi. Một dĩa đầy ăn không hết đem về hôm sau hâm lại vẫn ngon.


    Nhà hàng không chỉ rộng rãi khoảng thịt thà mà còn cho bàn hai người chúng tôi đủ rau cho 10 người ăn. Trong khi những nơi khác chỉ dọn ra một nắm giá và ít cọng húng quế húng lủi, Le Regal dọn ra cả một khu vườn. Chúng tôi lúng túng cuốn xà lách với giá, rau thơm, và thịt bò nướng từ đĩa bánh hỏi, chấm nước mắm. Thiên đường.


    Khác với ở Việt Nam, bánh hỏi là chính, thịt là phụ, ở Mỹ người ta tin rằng ăn nhiều thịt và tránh xa tinh bột thì mới có thể giảm cân. Vì vậy, dĩa bánh hỏi Le Regal theo đúng nguyên tắc “mớ ba mớ bảy”: bảy cuộn bánh hỏi nhỏ hơn cuốn chả giò với ba xiên thịt nướng to bản như lá tre. Nhà bếp cũng phóng tay rắc hành phi khô và đậu phộng, nhưng nếu bạn không thích để thịt nướng dính líu đến họ hàng thực vật thì chỉ việc phủi chúng qua một bên.

    Cùng với Tomatina, Alborz, một tiệm ăn Mễ Tây Cơ, và Top Dog, Le Régal biến Center Street thành một con phố ẩm thực quốc tế, chỉ thiếu ragout kangaroo và kitfo nữa là đủ bộ năm châu.

    Giá cả (chưa tính tip): $26.23 – bữa tối cho hai người và leftover cho bữa trưa ngày hôm sau.

    Địa chỉ:
    Le Regal
    2126 Center Street (between Oxford & Shattuck)
    Berkeley, CA 94704

  • Sáng ra lót dạ bánh giò


    Thay vì chọn giữa cả chục loại cereal, con nít Việt Nam sáng ra có thể chọn giữa cả chục món làm từ gạo và thịt để nạp năng lượng. Người Mỹ khi nghe bạn nói bạn ăn thịt và gạo cho bữa điểm tâm, nhẹ nhất là họ sẽ cau mày. Nhưng họ lại quên nghĩ tới việc họ ăn sáng với nào bánh sừng trâu kẹp thịt (breakfast croissant), bánh mì kẹp xúc xích (kolache), bánh tráng Mễ cuộn khoai tây nghiền, xúc xích và trứng (breakfast burrito), bánh rán (pancake) phết bơ ăn kèm thịt ba rọi hun khói và xúc xích, và cơ man nào những món thịt và bột mì béo bổ khác. Bữa điểm tâm của người Mỹ và người Việt chung quy chỉ khác nhau ở chỗ lúa gạo hay lúa mì. Nếu không so đo từng calorie, hạt nào chẳng là hạt?

    Hơn nữa, một món ăn sáng Việt Nam như bánh cuốn chẳng hạn thường không có phô mai hay bơ nên nhẹ nhàng hơn món Tây gấp mấy lần. Đó là cho đến một ngày nào đó, McDonald’s chế ra McBanhCuon với đầy đủ phô mai, trứng, xúc xích, thịt hun khói, cả dưa chuột ngâm giấm (pickle) chưa biết chừng. Hy vọng là bột bánh cuốn mỏng quá không chứa nổi ngần ấy thứ.

    Ngày ấy mẹ hay hò tôi ăn sáng khi hủ tíu, khi bánh cuốn, khi bánh giò trước khi đi học. Hồi đó tôi biếng ăn. Hồi đó ở Sài Gòn bánh giò người ta đẩy xe đi bán, mẹ thấy không chắc ăn chuyện sạch sẽ nên ít mua. Qua đến Mỹ bánh giò chỉ bán trong tiệm, tiệm xa nhà mấy mẹ cũng mua, vì tôi thèm.


    Mỗi tuần cả nhà làm một chuyến xuống Bellaire, Houston, đến tiệm Giò Chả Đức Hương gom về ba bảy chiếc. Bánh giò ở đây hình trụ tam giác, lớp bột gạo dày nhưng không che kín hết phần nhân thịt băm nấm mèo bên trong. Nghĩ cho cùng, bánh giò chẳng qua cũng là một người họ hàng thô kệch của bánh cuốn, to hơn, dày hơn, tròn trịa hơn, vụng về hơn. Lớp bột nửa đục nửa trong, nửa lạt nửa ngọt giống như hạt cơm mới chín, gói gém với phần nhân thành vừa miệng. Bánh giò dễ dãi hơn bánh cuốn, có thể vừa bốc lá vừa ăn, không cần đũa, không cần nước mắm pha. Bánh giò ăn ngay cũng được, để một ngày ở nhiệt độ phòng cũng được, để tủ lạnh ba ngày rồi ăn cũng vẫn được. Nhưng bánh giò cũng dễ đổ vỡ như một cậu học trò hay phải thức trắng đêm, ăn bánh giò cứ bỏ vào mồm khỏi cần nhai.

    Bánh giò cũng “nhẹ dạ” nữa. Trừ khi chơi luôn ba bốn chiếc một lúc, ăn bánh giò xong không bao giờ bạn phải gánh chịu cảm giác nằng nặng như ôm đá trong bụng suốt ngày đâu.